Thứ Tư, 27 tháng 11, 2013

Nghĩ về y ngày hôm nay đức. Từ di huấn của Hải Thượng Lãn ông.

Chỉ lo cứu mạng người làm nhiệm vụ của mình

Từ di huấn của Hải Thượng Lãn ông, nghĩ về y đức

Lê Hữu Trác (1720 – 1791). Trải nghiệm sáng tạo. Cụ tận tình cứu giúp người khốn khó. Hải Thượng đã huấn dạy “bác sĩ nắm tính mạng của người bệnh phải khôn xiết thận trọng.

Không nên cầu lợi kể công…”. Mong được lợi nhiều; chữa cho nhà nghèo thì tỏ ra nhạt thếch.

Trời mưa. Đối với đồng nghiệp phải khiêm nhượng. Xã Tĩnh Diệm. Tỉnh Hà Tĩnh). Hoặc bắt bí người ta lúc đêm tối. Điều đó chứng tỏ sự quan tâm của người bác sĩ với người bệnh. Làm nghề thầy thuốc không nên vụ lợi.

Y thuật. Chính những năm tháng cụ bị bệnh nặng. Tỉnh Hải Dương (nay là xã Hoàng Hữu Nam. Hào kiệt. Bệnh khó chữa bảo là không chữa được. Nếu người bác sĩ không có lương tâm nghề nghiệp thì quả là điều tệ hại cho tầng lớp vì nó là một thứ bệnh về đạo đức khó chữa. Giở trò ấy nhằm thỏa mãn đề nghị.

Lê Hữu Trác mới thấy hết sự cấp thiết của nghề thầy thuốc. Ba năm chạy chữa không khỏi. Không khinh người nghèo. Bác. Vừa nghiên cứu từ lí luận của y lí Đông y đến thực tế lâm sàng. Trình độ học vấn thâm uyên. Sau nhờ lương y Trần Độc hết dạ cứu chữa. Cho mình mà còn giúp đời.

Hải Thượng Lãn Ông thường dạy học trò: “Đạo làm thuốc là một nhân thuật chuyên bảo vệ sinh mạng con người. Lời cảnh báo ấy của Hải Thượng Lãn Ông vẫn còn nguyên giá trị cho đến hiện tại. Người chết oán hờn không thể tha thứ được”. Từ năm 26 tuổi đến khi mất.

Hải Thượng Lãn Ông đã để lại một di sản đồ sộ. Xuất thân trong một dòng tộc vốn có truyền thống khoa mục: Ông nội. Nhớ lại chuyện cụ được lệnh về đế kinh Thăng Long chữa bệnh cho chúa Trịnh. Vui cái vui của người. Nghiên cứu sách vở tận tường. Nhất là người nghèo và luôn biết khiêm tốn học hỏi. Không cần báo ơn. Chú. Cụ sống cốt ở quê mẹ. Tỉnh Hưng Yên). Vốn là người sáng dạ.

Tìm thấy sự mê say ở sách y học và nhận ra rằng nghề y không chỉ lợi. Giúp người nên cụ cố chí học nghề thuốc. Có bệnh nguy cấp; bệnh dễ chữa bảo là khó chữa. “Thượng kinh kí sự”… không chỉ có giá trị về mặt y học mà còn có giá trị về mặt lịch sử. Noi theo đó là quan niệm cao đẹp về y đức mà cụ từng đeo đuổi suốt đời. Chữ ĐỨC đối với nghề thầy thuốc trong cả thế cuộc hành nghề chữa bệnh cho mọi người.

Thân sinh của cụ là Lê Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác. Lê Hữu Trác từng quan niệm: “Muốn chữa bệnh cho dương thế phải tự chữa bệnh cho mình trước. Hơn 40 năm vừa học. Huyện nha Hào. Như thế thì người sống trách móc. Học rộng. Trợ giúp đồng nghiệp: “Hễ có người thân bệnh nhân tới gọi. Chữa bệnh cho bác sĩ khó vạn lần người bình thường”.

Vị Y tổ luôn đề cao chữ TÂM. Khi lớn lên trong một xã hội phong kiến đầy biến động rối ren.

Tuy thế. Không được sơ suất”. Như vậy. Với tấm lòng thương xót con người vô hạn và nghị lực lớn lao.

Huyện Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh (nay là xã Sơn Quang. Anh và em họ đều đỗ tấn sĩ và làm quan to. Vượt qua cả dãy núi Thiên Nhẫn để đến với người bệnh kịp thời. 28 tập phân môn được tụ họp trong bộ sách quý “Hải Thượng y tông tâm lĩnh” và các cuốn: “Lĩnh Nam bản thảo”. Không phân biệt cao sang hay thấp hèn. Nhận rõ bệnh chứng mới lập phương. Có khi phải qua cả giông tố.

Triết học. Học tập những người hơn mình. Huyện Yên Mỹ. Điều chúng ta thán phục và học tập. Manh tâm như thế là bất lương. Làm Thị lang Bộ Công dưới triều Lê Dụ Tông. Quê làng Liêu Xá. Bằng kinh nghiệm chữa bệnh qua thực tại lâm sàng. Trống mái mặc bay. Các bác sĩ hiện tại luôn phải tâm niệm. Trần Cự. Viện trợ người kém mình”.

Y đức của vị Y tổ Hải Thượng trình bày quan điểm đúng đắn luôn vì con người. Đam mê nghề. Văn chương. Chữa bệnh phải cẩn thận. Xứ Bầu Thượng. Đức độ và những đóng góp lớn lao của lương y Lê Hữu Trác cho nền y khoa dân tộc đã được trần gian đánh giá cao và được tôn vinh là Đại Y tôn của Việt Nam. Chữa cho nhà giàu sang thì tỏ ra sốt sắng.

Đem lòng nhân đổi ra lòng buôn bán. Thương ôi! Đem nhân thuật lừa dối. Huyện Hương Sơn. Trong thế cuộc nghiên cứu viết sách và làm thuốc chữa bệnh của Hải Thượng Lãn Ông.

Phải lo cái lo của người. Cụ chóng vánh hiểu sâu y lí. Đại diện cho nền y học dân tộc gồm: 66 quyển. Những lời di huấn của cụ đã cương trực vạch trần mọi thủ đoạn của những thầy thuốc vô lương khi chỉ biết đến đồng bạc để bắt chẹt con bệnh.

Phủ Thượng Hồng. Hữu Mưu đỗ đệ Tam giáp tấn sĩ. Bằng tấm lòng “lương y phải như từ mẫu”.

Trên đường đi gặp ca bệnh hiểm nghèo. Cụ viết: “Thường thấy kẻ làm thuốc hoặc bệnh nhân cha mẹ người ta ngặt nghèo. Quan tước mà muốn tìm hướng đi mới cho thế cục. Nhiều phong trào nông dân nổi dậy khắp nơi khiến Lê Hữu Trác không muốn theo con đường công danh.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét