Chủ Nhật, 25 tháng 8, 2013

Chuyển đổi nghề cho hộ dân thiếu ngày hôm nay đất sản xuất.

Ảnh: Viết Tôn Để giảm nghèo vững bền cho đồng bào dân tộc thiểu số, dưới giác độ đầu tư nguồn nhân công, các địa phương đã khai triển được những gì, thưa ông? Giảm nghèo vững bền hiện là câu hỏi lớn và cũng là vấn đề rất khó

Chuyển đổi nghề cho hộ dân thiếu đất sản xuất

Còn nhiều vấn đề mới nảy, nan giải cần giải quyết theo nhiều cách khác nhau. Nhìn ở giác độ Nhà nước, khi thu hồi đất để xây dựng những công trình công cộng, phúc lợi tầng lớp, người dân luôn vui lòng ủng hộ chủ trương lớn.

Công trình thủy điện A Lưới có tổng vốn đầu tư là 3. Có chỗ đáp ứng được đất sản xuất, nhưng lại không đáp ứng được đất ở; có chỗ đáp ứng được nơi ở, đất ở nhưng không đáp ứng được đất sinh sản, vì ở những nơi đó đất bạc màu.

Giác độ giảm nghèo vững bền tôi thấy có nhẽ ở tầm vĩ mô, vi mô đều phải thay đổi cách làm, phải có mô hình. Ông có nhận xét gì khi có ý kiến cho rằng mục tiêu di dân tái định cư đến nơi ở mới phải tốt hơn hoặc bằng nơi ở cũ, nhưng thực tiễn chưa hẳn là vậy? Trong Kỳ họp thứ 5, Quốc hội Khóa XIII vừa qua, Quốc hội cũng đã luận bàn rất kỹ về Luật Đất đai (sửa đổi).

Ông có đánh giá gì trong việc áp dụng khoa học kỹ thuật, chuyển đổi nghề ở các địa phương? Trong những năm qua, bà con vùng miền núi đã ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sinh sản, nhiều địa phương cũng rất quan tâm, nhưng chuyển biến còn rất chậm.

Nếu cứ tự cung, tự cấp thì không giảm nghèo bền vững được. Để tránh người dân thiên di tự do, việc giám sát cơ sở phải được đặt lên hàng đầu, ông có ý kiến gì về vấn đề này? Di dân tự do cũng có nhiều căn do sâu xa. Hiện thời người dân làm thuần nông, nuôi con lợn, con gà, trồng cây lúa, cây ngô may ra thì đủ lương thực, còn khi dự trồng cây công nghiệp như cao su thì biết bao nhiêu năm mới được thu hoạch, trong những năm chờ cao su có mủ để khai phá thì họ lấy gì để sống.

Vì vậy khi giải quyết vấn đề đất ở, đất sinh sản cho đồng bào dân tộc thiểu số cần có những điều kiện buộc ràng như: Nhà nước đã giải quyết cho những hộ thiếu đất sản xuất, phải sử dụng sau 10 năm mới được chuyển nhượng.

Để nâng cao năng suất, đồng bào dân tộc thiểu số cần được tiếp cận nhiều hơn nữa với khoa học kỹ thuật đương đại. Có 106 hộ dân trong vùng phải di dời để xây dựng công trình thủy điện A Lưới. Vậy nói là giảm nghèo nhanh và vững bền là khó. Trong khi đó ở các tỉnh miền núi phía Bắc, việc chăn nuôi đàn đại gia súc, gia cầm thường xảy ra dịch bệnh lớn.

Nhưng qua thực tại, ở nhiều nơi, quốc gia vừa giải quyết chưa ráo mực, bà con đã lại chuyển cho người khác, sau đó lại kêu là không có đất. Trong quá trình giám sát của các Ủy ban của Quốc hội, Hội đồng Dân tộc cũng kiến nghị tới các bộ, ngành can hệ và các tỉnh phải giải quyết đất sản xuất cho người dân.

Điện năng phát ra bổ sung cho nguồn điện lưới quốc gia bằng hai đường dây truyền tải về trạm 220kv Huế (tỉnh Thừa Thiên - Huế) dài 28km và Đông Hà (Quảng Trị) dài 84km. Tôi xin nhắc lại, hiệu quả nhất vẫn là liên lết 4 nhà, phải có doanh nghiệp, nhà khoa học có vai trò lớn sẽ thúc đẩy tiến độ nhanh hơn, tạo ra cách làm bền vững có sự chỉ dẫn của nhà khoa học, doanh nghiệp giúp nông gia tiếp cận cái mới.

Có nơi có đất sản xuất nhưng lại không có nước tưới để phục vụ sản xuất, hay làm thủy lợi, trong đó có các tỉnh Tây Bắc như Điện Biên, Lai Châu, Yên Bái… có đất canh tác nhưng lại chẳng thể làm ruộng được vì thiếu nước sinh sản. Vậy theo ông, đâu là giải pháp? Mỗi địa phương lại có những giải pháp riêng, nhưng cũng có tỉnh “bó tay” vì không có quỹ đất, đó là cái khó khăn nhất bây giờ.

234 tỷ đồng, công suất lắp máy 170MW (gồm 2 tổ máy), sản lượng điện bình quân hàng năm ước đạt 686,5 triệu KWh. Chính phủ đã chỉ đạo thu hồi một phần diện tích đất của nông, lâm trường chưa sử dụng hết, hoặc sử dụng không hiệu quả để cấp cho người dân nhằm đáp ứng đất sản xuất.

Trước mắt, cần sớm thu hồi đất của các nông, lâm trường dùng kém hiệu quả, hoặc bỏ hoang để giải quyết đất canh tác cho bà con vùng miền núi

Chuyển đổi nghề cho hộ dân thiếu đất sản xuất

Đó là những khó khăn trở ngại lớn nhất đối với những người dân phải di rời đến nơi ở mới. Ảnh: Viết Tôn Vậy với Tây Nguyên thì sao, thưa ông? Trong quá trình giám sát của Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, chúng tôi thấy ở các tỉnh Tây Nguyên, đồng bào căn bản là tốt, nhưng cũng có những nhóm đồng bào dân tộc thiểu số, có những thời điểm bị chi phối, lợi dụng chính sách của Nhà nước, được chính quyền cấp đất nhưng lại sang nhượng cho người khác.

Cả khu tái định cư có khoảng 12 ha diện tích gieo cấy lúa nước, nhưng để gieo được những mầm mạ, người dân đã phải vất vả, mất rất nhiều công sức cải tạo, đào bốc đá chất lên bờ, trong khi năng suất rất thấp. Cơ chế giám sát của các tổ chức phải chặt chịa để khi thu hồi đất đáp ứng được đích đề ra, tránh việc khi đã thu hồi xong nhưng lại để dự án treo.

Cá biệt, ở một số tỉnh miền núi phía Bắc, đất đai kiệt, đặc biệt như Hà Giang hay các huyện núi đá thì vấn đề đất sinh sản rất khó khăn, bà con khó phát triển sản xuất. Mặt khác, ở những nơi có địa hình khó khăn, bị thiên tai hạn hán, đất sinh sản bị rửa trôi, bạc màu trong khi việc tái tạo đất của người dân còn hạn chế.

Đây là căn do chính khiến người dân di trú tự do. Trong quá trình giám sát thu hồi đất nông, lâm trường, chính quyền các tỉnh cần giải quyết như thế nào cho hài hòa.

Về vấn đề này, Hội đồng dân tộc và các địa biểu Quốc hội cũng quan tâm. Quốc gia đặt ra vấn đề giảm nghèo nhanh nhưng phải vững bền, theo tôi khẩu hiệu này không ăn nhập với thực tiễn.

Từ đó bà con yên tâm sinh sản, tạo ra cách làm ăn mới, vững bền, giảm nghèo nhanh hơn. Làm sao phải chuyển đổi được nhận thức cũ, và có tư duy mới là phải sinh sản hàng hóa, phục vụ cho chế biến xuất khẩu.

Chuyển đổi nghề cho hộ dân thiếu đất sinh sản Theo ông, đâu là nguyên nhân khiến những năm trước đây một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số thiên di tự do? Do điều kiện tự nhiên hà khắc, bà con thường ngụ ở những nơi có độ dốc lớn, bị chia cắt mạnh.

Thứ nhất là nhiều nơi tuy có triển khai nhưng mới chỉ dừng lại ở mô hình. Sau đó họ lại di chuyển tiếp vào trong rừng, và lấy lý do là không có đất ở, đất sản xuất, đấu gây sức ép cho chính quyền phải giải quyết đất.

Ổn định đất ở, đất sản xuất là nhu cầu tất yếu của đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao. Công tác quản lý cần thẳng để kịp thời phát hiện, ngăn chặn di dân tự do. Nếu không giải quyết được vấn đề thu nhập cho người lao động thì họ lại vào rừng, phá rừng lấy đất sinh sản, đây là vấn đề rất đáng lo ngại.

Phải tạo ra phương thức ăn nhập để người dân có đất sinh sản. Tức là chính quyền địa phương phải áp dụng nhiều cách để tạo điều kiện cho người dân có việc làm, tăng thu nhập.

Nhiều vấn đề được cảnh báo và rút kinh nghiệm trong quá trình di dân tái định cư, không chỉ ở A Lưới mà còn nhiều địa phương khác tương tự cũng vậy. Vì khi áp dụng khoa học kỹ thuật thì phải tuân thủ những yếu tố, quy trình mang tính khoa học, nhưng người dân lại không tuân nghiêm nhặt, vì vậy có những mô hình lúc triển khai rất tốt nhưng không nhân rộng ra được mà chỉ dừng lại ở mô hình mà thôi.

Thứ hai là do nhận thức của bà con còn hạn chế nên việc tiếp cận với cái mới cũng khó khăn hơn. Thứ hai là ở nhiều nơi chính quyền đã tạo điều kiện cho bà con tự san sớt, tự sang nhượng (cho nhau mượn theo thời vụ) đất sinh sản

Chuyển đổi nghề cho hộ dân thiếu đất sản xuất

Hay những mô hình nuôi gia cầm theo hướng sinh sản hàng hóa phải tuân và thực hiện tốt dịch vụ thú y, đầu vào, đầu ra cho sản phẩm. Về việc này, có nơi làm tốt, nhưng cũng có nơi làm không được.

Muốn tồn tại, người dân phải được chuyển đổi nghề, hoặc buộc lòng phải chuyển di đi nơi khác. Từ đó tạo ra những tiền lệ không tốt.

Nhóm tư vấn đánh giá tác động môi trường và tầng lớp (nhóm SEIA), thuộc Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Thừa Thiên - Huế vừa tiến hành khảo sát khu tái định cư thủy điện A Lưới cho 106 hộ dân tại thôn Cân Tôm, xã Hồng Thượng, huyện A Lưới. Nhưng cũng có cái khó là nhiều địa phương không còn quỹ đất.

Từ những khó khăn đó mà một bộ phận người dân các tỉnh phía Bắc đã di dân tìm đến nơi ở mới có điều kiện sống tốt hơn, do đất đai ở nơi ở mới mầu mỡ, có nước sinh sản… Một lý do khác là tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số hay ở theo cộng đồng, theo dòng tộc, họ tộc. Tuy nhiên khi giải quyết đất ở, đất sản xuất, tái định cư cho người dân với mục tiêu là đến nơi ở mới phải tốt hơn hoặc bằng nơi ở cũ thì thực tế lại không đạt yêu cầu.

Theo tôi cần phải có sự chuyển đổi, liên kết được giữa Nhà nước, nhà nông, nhà khoa học và doanh nghiệp.

Trong Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) vừa được bàn luận tại Kỳ họp thứ năm, Quốc hội Khóa XIII vừa qua, nhiều đại biểu cũng đưa ra quan điểm rằng Nhà nước cần tính đến đất ở, đất sinh sản cho đồng bào dân tộc thiểu số ổn định cuộc sống.

Xin trân trọng cảm ơn ông! Nguyễn Viết Tôn (thực hành). Ở những địa phương đích thực không còn quỹ đất thì phải chuyển đổi nghề cho người dân.

Bên cạnh đó, cần có sự hỗ trợ của Nhà nước để tạo điều kiện tốt về cơ chế cho các doanh nghiệp tiếp xâm nhập vào vùng khó khăn, vùng dân tộc, vùng sâu, vùng xa để làm dịch vụ đầu vào, đầu ra. Sau khi làm thí nghiệm mô hình thành công, các địa phương lại không nhân rộng mô hình để phổ quát, do đó hiệu quả không cao. Đối với các tỉnh miền núi phía Bắc, bây giờ quỹ đất gần như chơi còn nên để giải quyết đất ở, đất sinh sản cho bà con là việc không đơn giản.

Những mô hình đã đem lại thành công như nuôi cá nước lạnh, chăn nuôi đàn đại gia súc… đòi hỏi phải là những người say mê, người chăn nuôi phải có vốn lớn mới đeo đuổi được vì mức đầu tư cao để mua như thức ăn, dạo thị trường… thì mới có thể thành công. Nếu dòng tộc có nhiều người chuyển di đến nơi ở mới, ắt có sức thu hút anh em trong dòng họ đi theo với quan niệm “Ở thì cùng ở, đi thì cùng đi”.

Đây cũng là nhân tố tự nhiên của sự phát triển. Trước nhất công tác tuyên truyền của chính quyền phải mạnh mẽ hơn nữa, tháo gỡ kịp thời những khó khăn của người dân, nhu cầu đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt phải được đáp ứng… quốc gia tuy đã có chính sách tương trợ, nhưng rất nhỏ giọt.

Những địa phương đích thực khó khăn, không đủ điều kiện đáp ứng cho người dân định canh, định cư thì Nhà nước cần điều hòa nguồn lực đầu tư để người dân yên tâm cần lao sản xuất. Bà con cũng cần thay đổi cách làm ăn tự cung, tự cấp sang cơ chế thị trường thì mới có thể giảm nghèo vững bền.

Trong khi đó, dân số tăng nhanh trong những năm gần đây nên đất ở, đất sinh sản càng ngày càng thu hẹp và bị chi phối nhiều. Chẳng hạn như ở huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên - Huế khi tái định cư thủy điện, Ban quản lý thủy điện A Lưới tạo mặt bằng bằng cách dùng cơ giới để san gạt, nhưng mặt bằng đó không thể khai khẩn sinh sản được vì phía dưới toàn đá.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét